Nước ta hiện nay có khoảng 150 loài tre, phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam, từ ven biển đến đồng bằng và trên núi cao. Một số loài phổ biến như: tre gai, luồng, nứa, mạnh tông, tre tàu, trúc sào, lồ ô, vầu, tầm vông,… Những loài tre được trồng phổ biến tại Việt Nam hiện nay là gì?
Tre gai
Tre gai có tên khoa học là Bambusa bambos. Tre gai được trồng rộng rãi nhất ở Việt Nam – Từ Bắc vào Nam, từ đồng bằng đến miền núi, nhưng ở miền Bắc trồng nhiều hơn.
Thân có nhiều cành và nhiều gai cứng nhọn. Thân ngầm dạng củ, thân tre mọc quần tụ chen khít thành từng cụm dưới 100 cây.
Kích thước cây trung bình: Thân cao trung bình 14m đường kính trung bình 7 cm, ngọn cong 1m, lóng dài khoảng 28cm, vách thân dày 1.8cm, thân tươi trọng lượng khoảng 30kg.
Biện pháp kỹ thuật: Trồng bằng gốc, chét hoặc thân trên nhiều loại đất. Người dân có tập quán trồng thành từng hàng ở chân đê để chắn sóng bảo vệ đê; trồng ở chân đồi, bờ ao, xung quanh vườn rìa làng để chống sói lở, ngăn thú rừng, gia súc phá hoại hoa mầu.
Người dân có thói quen khi khai thác là chặt hết số cây trong cụm và gốc chặt khá cao vì thân tre mọc chen khít. Gốc chặt không nên cao quá 30 cm và sau khi chặt nên đổ thêm đất bùn vào gốc. Có thể chặt luân phiên cách hàng hoặc cách khóm để luôn phát huy khả năng phòng hộ nhất là ngăn sóng cho đê.
Tre Luồng
Cây Luồng có tên khoa học là Dendrocalamus barbatus. Luồng được trồng nhiều ở Bắc Trung Bộ. Dẫn giống trồng ở vùng Trung Tâm Bắc Bộ và vùng Đông Nam Bộ đều sinh trưởng khá. Nổi tiếng và trữ lượng lớn là Luồng Thanh Hóa
Luồng là loài tre không gai, thân ngầm dạng củ, thân tre mọc quần tụ thành cụm dưới 100 cây.
Kích thước cây trung bình: Thân cao 14m, đường kính 10cm; lóng dài 33cm, vách thân dày 1cm hoặc hơn, thân tươi nặng 37kg.
Biện pháp kỹ thuật: Có thể trồng Luồng bằng gốc, chét, thân hoặc cành. Hiện nay, giống trồng được dùng nhiều là giống cành bó bầu trên thân có qua thời gian ươm ở vườn ươm. Đất trồng thường là đất rừng thứ sinh chỉ còn cây nhỡ, cây bụi. Luồng được trồng tập trung thành rừng trên diện tích lớn và cũng được trồng rải rác một số cụm xung quanh nhà. Cây gỗ hỗn giao tồn tại lâu dài với Luồng có Lim xanh (Erythrophloeum fordii Oliv.). Những năm mới trồng, khi rừng chưa khép tán có thể trồng xen cây nông nghiệp như đỗ, lạc. . . Từ năm thứ 5 có thể chặt tỉa những cây xấu, chặt những cây tuổi 4 trở lên, chu kỳ chặt không quá 4 năm.
Trúc sào
Trúc sào được trồng ở vùng Đông Bắc Bộ và Trung tâm Bắc Bộ. Trúc sào là loài tre không gai, thân ngầm dạng roi, mọc phân tán. Mật độ trung bình 10.000cây/ha.
Kích thước cây trung bình: Thân cao 10m, đường kính 5cm, lóng dài 25cm, vách thân dầy 0,6cm, thân cây tươi nặng 6kg.
Biện pháp kỹ thuật: Giống Trúc sào hiện nay thường dùng là một đoạn thân ngầm dài 40-50cm có mang một đoạn thân 1-2 tuổi dài 50-70cm. Thông thường Trúc sào được trồng thuần loại từng đám 1-2ha ở sườn đồi. Trong quá trình phát triển chúng xâm lấn vào rừng gỗ nghèo kiệt ở xung quanh tạo nên rừng hỗn giao với cây gỗ rải rác ở tầng trên. Chặt cây từ tuổi 4 trở lên, chu kỳ chặt không quá 4 năm.
Diễn trứng (Tre tầu)
Tre tầu có tên khoa học là Dendrocalamus parvigemmiferus sp.nov. Diễn trứng là loài tre không gai, thân ngầm dạng củ, mọc quần tụ thành cụm dưới 100 cây. Được trồng nhiều ở vùng Trung tâm Bắc Bộ và Đông Nam Bộ.
Kích thước cây trung bình: Thân cao 15m; đường kính 8cm, ngọn cong dài 1m, lóng dài 38 cm, vách thân dày 1.1cm thân tươi nặng 22 kg.
Biện pháp kỹ thuật: Giống trồng có thể là gốc, chét, thân hoặc cành. Người dân thường trồng ở chân đồi, quanh nhà nên ít khi có 1-2 ha. Hiện nay ở vùng Đông Nam Bộ đã và đang nghiên cứu trồng chuyên canh lấy măng. Người dân có tập quán khi chặt chỉ để lại cây 1 tuổi. Tốt nhất là chặt cây 4 tuổi trở lên, chu kỳ chặt không quá 4 năm.
Tre mạnh tông
Danh pháp khoa học: Dendrocalamus asper (Schult.f.) Back ex Heyne. Mạnh tông được trồng nhiều ở vùng Đông Nam Bộ. Mạnh tông là loài tre không gai, thân ngầm dạng củ, mọc quần tụ thành cụm dưới 100 cây.
Kích thước cây trung bình: Thân cao 19 m, đường kính 11cm, lóng dài 28 cm, vách thân dày 2cm, thân cây tươi nặng 57kg.
Biện pháp kỹ thuật: Giống trồng thường dùng là gốc hoặc chét. Người dân thường trồng ở quanh nhà để lấy măng vì cho nhiều măng to, ăn ngon.
Hiện nay ở vùng Đông Nam Bộ đã và đang nghiên cứu trồng chuyên canh lấy măngvà dùng giống cành được bó bầu trên thân tre.
Lồ ô
Tên khoa học là Bambusa procera A.Chev. et A.Cams. Lồ ô mọc tự nhiên ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, tập trung nhiều ở vùng Đông Nam Bộ.
Lồ ô là loài tre không gai, thân ngầm dạng củ, mọc quần tụ thành cụm dưới 100 cây, mọc thuần loại hoặc hỗn giao với cây gỗ.
Kích thước cây trung bình: Thân cao 16m, đường kính 7,6 cm, ngọn cong 1,5 cm, lóng dài 42cm, vách thân dày 1 cm, thân tươi nặng 15 kg.
Biện pháp kỹ thuật: Bảo vệ, phát dọn cây khô, cây sâu bệnh trong khóm, khi khai thác thì chặt cây già từ 4 tuổi trở lên, chu kỳ chặt không quá 4 năm.
Ngoài ra còn một số loài tre khác chuyên dùng để trồng lấy măng như: lục trúc, bát độ,… nhưng không phổ biến và có trữ lượng lớn như các loại tre ở trên.
Nứa
Tên khoa học của Nứa là Neohouzeaua dullooa (Gamble) A.Cams. Trong rừng tự nhiên có hai dạng là Nứa lá nhỏ (còn gọi là Nứa tép) và Nứa lá to (còn gọi là Nứa ngộ). Nứa phân bố rộng khắp nhưng có nhiều ở vùng Trung tâm Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Vào thập kỷ 70 rừng Nứa ra hoa kết quả rồi chết hàng loạt, tái sinh bằng hạt ít được chăm sóc nên diện tích rừng Nứa sau đó bị thu hẹp.
Nứa là loài tre không gai, thân ngầm dạng củ, thân tre mọc quần tụ thành từng cụm có khi tới hàng mấy trăm cây. Tuỳ mức độ rừng bị tác động mà rừng Nứa pha lẫn ít nhiều cây gỗ hoặc thuần loại.
Kích thước cây trung bình: Thân cao 10m, đường kính 4 cm, ngọn cong rủ xuống dài 2m, lóng dài 35 cm, vách thân dầy 0,35 cm, thân cây tươi nặng 3 kg.
Biện pháp kỹ thuật: Bảo vệ, phát dọn cây khô, cây sâu bệnh trong khóm; khi khai thác thì chặt cây già từ tuổi 3 trở lên, số cây để lại gấp 2 lần số cây đẻ măng trong cụm, chu kỳ chặt không quá 3 năm.
Vầu đắng
Vầu đắng có tên khoa học là Indosasa augustata McClure. Vầu đắng có nhiều ở vùng Trung tâm Bắc bộ và Đông Bắc bộ. Rừng Vầu đắng là loại rừng thứ sinh hình thành sau khi rừng gỗ nguyên sinh bị phá hoại. Vầu đắng là loài tre không gai, thân ngầm dạng roi, thân tre mọc phân tán từng cây, phát triển rất tốt dưới tán thưa của rừng cây gỗ nhất là ở các khe hẻm , thung lũng. Vầu đắng là loài điển hình cho nhóm mọc tản, có kích thước thân lớn của nước ta.
Kích thước cây trung bình: Thân cao 17m, đường kính 10cm, lóng dài 35cm, vách thân dầy 1 cm, thân tươi nặng 30kg.
Biện pháp kỹ thuật: Bảo vệ, chặt cây già từ tuổi 4 trở lên, chu kỳ chặt không quá 4 năm.
Mạy sang
Tên khoa học là: Dendrocalamus sericeus Munro. Mạy sang mọc tự nhiên ở vùng Tây bắc. Trong thập kỷ 60 Mạy sang ở Tây bắc đã ra hoa, kết hạt rồi chết hàng loạt; sau đó, Mạy sang tái sinh tự nhiên từ hạt và hạt cũng được đem trồng ở đây và ở vùng Trung tâm Bắc Bộ. Mạy sang là loài tre không gai, thân ngầm dạng củ, mọc quần tụ thành cụm dưới 100 cây, Mạy sang có thể hỗn giao với cây gỗ hoặc thuần loài.
Kích thước cây trung bình: Thân cao 14m, đường kính 7cm, lóng dài 22 cm, vách thân dầy 1,3cm, thân tươi nặng 19kg.
Biện pháp kỹ thuật: Bảo vệ, phát dọn cây khô, cây sâu bệnh trong khóm; khi khai thác thì chặt cây già từ tuổi 4 trở lên, chu kỳ chặt không quá 4 năm.
Trên đây là những thông tin chia sẻ được Vựa Cừ Tràm Tân Hoàng Phát tổng hợp từ nhiều nguồn tin cậy. Hy vọng sẽ đem lại những thông tin hữu ích dành cho các bạn.
(Nguồn: Viện Khoa học Lâm Nghiệp Việt Nam)